Nội dung của hợp đồng dịch vụ logistics chính là toàn bộ các điều khoản mà các bên thỏa thuận với nhau trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với nhu cầu, mục đích của mình xoay quanh việc cung ứng và thụ hưởng dịch vụ logistics. Cũng giống như các loại hợp đồng dịch vụ khác, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về các điều khoản phải có trong hợp đồng logistics, các bên hoàn toàn tự chủ trong việc xây dựng số lượng và nội dung các điều khoản miễn là không trái với những nguyên tắc chung mà pháp luật đưa ra. Tuy nhiên, để bảo đảm tạo ra cơ sở vững chắc cho các bên thực hiện hợp đồng, để phòng tránh rủi ro và là cơ sở để giải quyết tranh chấp hợp đồng (nếu có) thì các bên nên thỏa thuận một cách đầy đủ, cụ thể và chi tiết. Dựa vào định hướng của các quy định pháp luật và thực tiễn ký kết các hợp đồng dịch vụ logistics có thể thấy trong nội dung của loại hợp đồng này cần phải có các điều khoản cơ bản và quan trọng như sau:
- Phương thức giải quyết tranh chấp
Tranh chấp hợp đồng thương mại nói chung, tranh chấp hợp đồng dịch vụ logistics nói riêng là điều mà không có chủ thể nào mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế các tranh chấp diễn ra ngày càng nhiều. Vì vậy, trong hợp đồng dịch vụ logistics bên kinh doanh dịch vụ và bên khách hàng cũng phải thỏa thuận phương thức giải quyết tranh chấp. Các bên có thể lựa chọn các phương thức cơ bản, đó là: thương lượng, hòa giải, Tòa án, Trọng tài. Trong đó cần chú ý, nếu các bên muốn giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thì phải có thỏa thuận trọng tài. Tùy thuộc vào tính chất của hợp đồng mà có thể lựa chọn Trọng tài quốc tế hoặc Trọng tài Việt Nam.
Hợp đồng dịch vụ logistics (tiếng Anh: Logistics services contract) là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên làm dịch vụ logistics với khách hàng.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên
hợp đồng logistics là hợp đồng song vụ: quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Các bên sẽ phải thỏa thuận và đưa ra các yêu cầu cũng như quyển lợi trong quá trình thực hiện hợp đồng của từng bên và tuân thủ theo những thỏa thuận đó trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Căn cứ vào tính chất phức tạp của hoạt động logistics, bản chất mối quan hệ giữa các bên, pháp luật đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng logistics. Căn cứ vào Điều 235 và Diểu 236 Thương mại năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2017,2019 thấy cụ thể:
a) Về quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
Thứ nhất, được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác;
Đáy là quyền quan trọng và cơ bàn nhất của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics bởi vì mục đích của thương nhân này khi tham gia hợp đồng logistics là hướng děn việc tìm kiếm lợi nhuận bằng cách thực hiện thay cho chủ thể khác một hoǎc nhiều hoạt động trong chuoi dịch vụ logistics. Vói tính chǎt chuyên nghiệp và mục tiêu hoạt động kinh doanh một cách lâu dài, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thường xây dựng bảng giá dịch vụ cu thê. Khách hàng khi đồng ý giao kết hợp đồng cǔng là chán nhận với mức giá dịch vụ của doanh nghiệp và phāi thanh toán cho họ khi họ hoàn thành công việc được giao. Vê cơ bản, thù lao dịch vụ được tính toán sao cho hợp lý và tương xứng với công sức của thương nhân kinh doanh logistics trong toàn bộ quá trình thực hiện dịch vụ và có thể xác định được trước khi tiến hành công việc. Nhung trong khi thực hiện cung ứng dịch vụ không tránh khỏi việc có các chi phí khác phát sinh tác động trực tiếp đến hiệu quả cũng như kết quả thực hiện công việc được giao. Vì vậy, bên kinh doanh dịch vụ cũng cần thiết phải được hưởng các chi phí liên quan này.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
Về mặt nguyên tắc, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân thủ các chỉ dẫn của bên khách hàng. Việc làm trái vái những chỉ dẫn đã thỏa thuận sẽ là một trong những cǎn cú dẫn đến việc phạm hợp đồng và sẽ phải chịu các chế tài kèm theo.
Tuy nhiên, có những trường hợp thương nhân nhận thấy việc thực hiện chỉ dẫn đó sẽ đem đến những bất lợi cho khách hàng thì họ thực hiện khác đi, nhưng phải chúng minh lý do chính đáng khiến mình phải làm trái chỉ dẫn được sự chính và mục đích của hành vi đó là vì lợi ích của khách hàng. Điều quan trọng là ngay khi thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng,thương nhân kinh doanh logistics phái thông báo ngay cho khách hàng biết.Nếu không có thông báo thì lý do dù có chính đáng đến đâu bên kinh doanh dịch vụ logistics cūng có thế bị coi là vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, khi xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chì dǎn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dān.
Nếu như trường hợp trên thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics vì lợi ích của khách hàng mà phải thực hiện khác chi dǎn khách hàng đua ra, thì trong trường hợp này, pháp luật đặt ra nghĩa vụ thông báo xin chỉ dẫn khi không thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng. Nếu không thực hiện nghĩa vụ thông báo này thì việc không thực hiện được chỉ dẫn của khách hàng cũng sẽ bị coi là vi phạm.
Thứ tư, trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vu của mình trong thời hạn hợp lý.
Việc không quy định thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng sẽ dẫn đến việc bên khách hàng sẽ phải chờ đợi, không thỏa mãn được nhu cầu của mình khi giao kết hợp đồng. Do đó, pháp luật đặt ra nghĩa vụ đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong trường hợp này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý. Mặc dù khó để xác định thời hạn hợp lý cụ thể là thời hạn như thế nào nhưng xét cho cùng, để bảo đảm mối quan hệ hợp đồng cũng như uy tín của mình,bên cung ứng dịch vụ phái cung cấp dịch vụ nhanh nhat co thể,thường là ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực.
Thứ nǎm, khì thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phai tuan thù các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Đây là nghĩa vụ mang tính khái quát chung dǎt ra nếu thương nhân kinh doanh thực hiện việc vận chuyển hàng hóa.Rủi Ro tiêm án trong quá trình thực hiện vận chuyển là rát nhiêu. Do vậy, pháp luật yêu cầu thương nhân đó phải tuân thủ những nguyên tắc mà pháp luật đặt ra, nếu không có quy định của pháp luật thì phải tuân theo tập quán vận tải.
Thứ sáu, quyển cẩm giữ, định đoạt hàng hóa.
Pháp luật trao cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics quyền cầm giữ hàng hóa và các chứng từ có liên quan đến hàng hóa để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán của khách hàng nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng. Trong trường hợp khách hàng không trả nợ thì thương nhân có quyền định đoạt sǒ hàng hóa cấm giữ dó.
Trước khi định đoạt hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phái thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hóa đó. Mọi chi phí cẩm giữ, định đoạt hàng hóa do khách hàng chịu. thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được sử dụng số tiền thu được từ việc định đoạt hàng hóa để thanh toán các khoản mà khách hàng nợ mình và các chi phí có liên quan; nếu số tiền thu được từ việc định đoạt vượt quá giá trị các khoản nợ thì số tiền vượt quá phải được trả lại cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa hoặc chứng từ đã được định đoạt'.
b) Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của khách hàng
Khách hàng là bên được thụ hưởng kết quả dịch vụ do thương nhân kinh doanh cung cấp. Khi giao kết hợp đồng họ dā xác định rõ những yêu cầu đối với công việc giao cho bên cung ứng dịch vụ. vậy, quyền quan trọng nhất của họ là được hướng dẫn, kiểm Do giám sát việc thực hiện hợp đồng để mọi việc được diễn ra tra, như mong muốn của họ.
Tương ứng với đó, nghĩa vụ quan trọng nhất phái thực hiện đó là thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh toán. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc thực hiện dịch vụ được hiệu quả, bên khách hàng trong hợp đồng logistics cân phải thực hiện các nghĩa vụ khác nhau: cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; thông tin chi tiết,đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hóa cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; đóng gói, ghi ký mā hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa, trừ trường hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đảm nhận công việc này; bồi thường thiệt hại, trà các chi phí hop lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng logistics mà pháp luật đưa ra mang tính chất định hướng, các bên trong hợp đồng có quyền đưa ra các thỏa thuận riêng của mình tùy thuộc vào tính chất, múc dô dòi hoi ở công việc cũng như loại hàng hóa gắn liền với công việc đó. Tuy nhiên, nếu trong hợp đồng dịch vụ logistics các bên không có thỏa thuận về loại quyền và nghĩa vụ được pháp luật để cập, khi xảy ra tranh chấp, các bên có quyền căn cứ vào các quy định pháp luật để yêu cầu bên còn lại thực hiện theo đúng điều khoản đó.